Hoàng đế La Mã Traianus

Vị tân Hoàng đế được toàn dân thành La Mã chào đón với niềm ái mộ nhiệt liệt, và ông cũng không phụ lòng dân qua việc trị vì xuất sắc và không tàn bạo như bạo chúa Domitianus trước đây. Ông giải phóng nhiều tù nhân phải chịu kiếp tù đày vô lý vô cớ dưới triều Domitianus và ban phát lại của cải cho những thần dân đã bị bạo chúa Domitianus tịch thu tài sản - thực ra tiên đế Nerva đã có ý định trả lại cho nhân dân những của cải này nhưng qua đời trước khi thực hiện được. Nhân dân yêu mến Hoàng đế Traianus đến mức Viện Nguyên lão La Mã phải vinh danh ông là optimus, nghĩ là "xuất sắc hơn cả".[14][15] Trước thời ông, Optimus chỉ là cái tên mà nhân dân La Mã đặt cho thần Jupiter để tôn vinh công đức của thần, mà giờ đây Traianus với Đế hiệu này đã được sánh vai với Jupiter.[16] Ông cũng vời các nhà hiền triết về triều để góp phần dựng nước.[17] Với ông, luật pháp La Mã trở nên nhân văn hơn. Epictetus - một nhà hiền triết trứ danh đời Hoàng đế Nero, có ảnh hưởng không nhỏ đến sự đức độ của Hoàng đế Traianus.[18]

Vị đại anh quân này cũng là người đồng tính luyến ái. Tuy người ta thường coi đây chẳng qua là tin đồn nhảm mà thôi, bằng chứng về chuyện này có đầy, như nhà sử học Julian Bennett có đề cập.[19] Julianus Nhà hiền triết - vị Hoàng đế Đa thần giáo cuối cùng Đế quốc La Mã, có viết rằng khi Traianus đang "lên cơm han trai" thần Zeus phải cẩn thận với chàng Ganymedes tuyệt đẹp của thần. Người ta kể rằng Traianus có quan hệ đồng tính với Hadrianus và các lính lệ của Hoàng gia, thậm chí có thời ông còn yêu chàng diễn viên Pylades và vũ công Apolaustus. Và nếu chúng ta có thể tin vào giai thoại, trước kia tiên hoàng Nerva và Licinius Sura đều đã nằm giường với ông.[20] Là một người chiến binh giản dị và khoan dung, ông dễ thiện cảm đến mức mà theo nhà sử học Cassius Dio: "Ngài luôn được ái mộ và không ai căm ghét Ngài cả ngoại trừ các kẻ thù của Ngài". Tuy rất mê những chàng trai trẻ và nghiện rượu, ông vẫn luôn giữ nề nếp La Mã xưa. Theo ghi nhận của Cassius Dio:[6]

Tôi biết rõ là Ngài rất ham trai và rượu, nhưng nếu Ngài gây chuyện gì xấu hoặc giở trò đồi bại vì thói quen ấy, Ngài sẽ bị phê phán gắt gao, song, Ngài uống nhiều rượu như Ngài muốn nhưng Ngài vẫn không bị say, và trong quan hệ với các chàng trai Ngài không làm tổn hại ai cả.
— Cassius Dio

Chinh phạt Dacia

...khi Ngài hăng say chinh chiến, thực ra Ngài sẽ thỏa mãn khi tên địch dữ tợn này bị tiêu diệt và dân nước địch bị đày ải.
— Cassius Dio[4]

Không lâu sau khi lên ngôi Hoàng đế, Marcus Ulpius Nerva Traianus đã bắt đầu tiến lên trên con đường vinh quang quân sự.[3] được biết đến như là một trong những vị thống soái lừng danh nhất trong lịch sử thế giới, đặc biệt là do cuộc chinh phục hiển hách của ông ở vùng Cận Đông, nhưng ban đầu là hai cuộc chiến tranh chống lại người Dacia - biến họ thành một vương quốc chư hầu (101 - 102), tiếp theo xáp nhập vào Đế chế vùng biên giới Danube. Xưa kia, người Dacia đã bắt người La Mã phải triều cống, vì vậy ông quyết tâm tiêu diệt Dacia để gỡ gạc cái nỗi nhục này.[21]

Trong chiến dịch phạt Dacia lần đầu tiên vào khoảng từ tháng 3 đến tháng 5 năm 101, Hoàng đế Traianus thân chinh điều động binh mã[22] vựơt qua cho bờ phía Bắc của sông Danube và đánh tan nát quân Dacia ở gần hoặc trong một con đèo (Carpati) tên gọi là Tapae (xin xem bài Trận Tapae lần thứ hai). Đây là một thất bại thảm hại của Decebalus.[23] Tuy nhiên, các chiến binh tinh nhuệ của Traianus phải chịu nhiều thiệt hại trong trận đánh kịch liệt này, do đó ông không thể tấn công thành Sarmizegetuza để kết liễu luôn kẻ địch, mà ông phải đóng quân tại đó trong hôn một năm để triệu tập và động viên tinh thần, sức khỏe của ba quân.[24]

Vua Decebalus là một kẻ thù đáng gờm của Traianus, do ông ta vẫn còn cố chấp sau khi thua trận.[21] Trong suốt Mùa Đông năm tới, vua Decebalus thân chinh xua binh tướng tiến đánh quân La Mã trên toàn vùng hạ lưu sông Danube, nhưng bị Quân đội của Traianus đánh đại bại. Trên đà chiến thắng, Hoàng đế Traianus thân hành cầm binh đánh sâu vào Vương quốc của người Dacia và buộc vua Decebalus phải thần phục ông một năm sau đó.

Hoàng đế Traianus ca khúc khải hoàn kéo đại quân trở về kinh thành La Mã trong vinh quang và đã được vinh danh bằng danh hiệu Dacicus Maximus. Chiến thắng được ca ngợi trên Traiani Tropaeum. Tuy nhiên, đây là một nền hòa bình không được ổn định:[25] sau khi được ông để lại làm vua chư hầu thì Decebalus lại lật lọng, vào năm 105 ông ta hô hào các bộ lạc ở phía Bắc sông Danube tạo phản chống Triều đình La Mã, nhân cơ hội đó ông ta sẽ công kích vào Đế quốc.[26]

Vị Hoàng đế truyền lệnh cho Apollodorus người xứ Damascus thiết kế và gầy dựng nên một cây cầu lớn bắc qua sông Danube, sau đó ông lại thân chinh đốc suất binh mã phạt quân Dacia và chiếm lĩnh được một phần của Vương quốc Dacia vào năm 106. Sau một cuộc chiến đấu ác liệt (xem thêm Chiến tranh Dacia lần thứ hai), đại binh của ông phá nát bấy nát bét kinh đô Sarmizegetusa Regia của người Dacia. Decebalus bỏ chạy, nhưng để không rơi vào tay của lực lượng Kỵ binh La Mã, ông ta đã tự sát, tướng sĩ La Mã liền chặt đầu của ông ta dâng thủ cấp lên cho Hoàng đế Traianus bấy giờ đang ngự tại "Ranisstorum" - một địa điểm không thể xác định được ở nước Dacia thời đó. Đầu của Decebalus bị người La Mã bêu ở kinh thành La Mã, trên các bậc thang dẫn đến đồi Capitol. Đám hộ vệ của Decebalus (trong số đó có hai bé trai) cũng bị quân sĩ của Traianus tóm gọn.[27] Sau chiến thắng, Hoàng đế Traianus cũng lệnh cho gầy dựng một thành phố mới là Colonia Ulpia Traiana Augusta Dacica Sarmizegetusa, trên một địa điểm khác so với cố đô của người Dacia, mặc dù có cùng tên gọi đầy đủ là Sarmizegetusa. Với chiến thắng của ông, mở ra gần 200 năm đô hộ của người La Mã ờ vùng România.[28]

Bành trướng về phương Đông

Cùng thời gian, vị vua cuối cùng được người La Mã bảo trợ là Rabbel II Soter của Nabatea, qua đời. Sự kiện này có lẽ đã thúc đẩy Hoàng đế Traianus tiến hành sáp nhập Nabatea, mặc dù lý do cụ thể của việc sáp nhập này không được biết rõ, cũng như phương thức tiến hành sáp nhập. Một số hình khắc cho thấy có lẽ một chiến dịch quân sự, với lực lượng từ các xứ SyriaAi Cập, đã được tiến hành. Điều chắc chắn là tới năm 107, các binh đoàn Lê dương La Mã đã đồn trú tại các khu vực quanh PetraBostra, như được chỉ ra trong các cuộn giấy papyrus tìm thấy ở Ai Cập. Đế quốc La Mã mở rộng thêm tỉnh Arabia Petraea, tức tỉnh Ả Rập (nay là phần phía Nam Jordan và Tây Bắc Ả Rập Xê-út), được Hoàng đế công nhận vào năm 107. Những bi văn và tài liệu ở tỉnh đã cho thấy sự kiện này.[29]

Mở rộng Đế chế đến cực điểm

Biên giới đế quốc La Mã dưới thời Trajan (117)

Vào năm 113, ông tiến hành chiến dịch cuối cùng để phản ứng lại việc Đế quốc Parthia tôn một nhân vật đối lập với người La Mã lên làm vua nước Armenia, một vương quốc bị cả hai đế quốc áp đặt bá quyền kể từ thời Hoàng đế Nero. Đây sẽ là một thử thách hết sức lớn lao đối với ông và ba quân.[3] Tuy các võ tướng của ông đều khuyến khích ông xuất chinh do họ muốn có được vinh hiển cho riêng mình, Publius Aelius Hadrianus phản đối, bởi lẽ Hoàng đế đã hao tổn nguồn nhân lực của đất nước trong cuộc chinh phạt Dacia do đó không nên đẩy đất nước một lần nữa vào cảnh binh đao, và lại đất Parthia quá xa để có thể phòng thủ.[7] Nhưng, Hoàng đế Traianus tổ chức hành binh đánh Armenia, lật đổ tân vương nước này và sáp nhập luôn cả Armenia vào lãnh thổ đất nước. Tiếp đó, ông thân hành tiến quân về phương Nam, đánh thẳng vào chính quốc Parthia, hạ các thành phố lớn Babylon, Seleucia và cuối cùng là kinh đô Ctesiphon năm 116. Ngay trước khi ca khúc khải hoàn kéo đoàn binh thắng trận vào thành Ctesiphon, ông đã được Viện Nguyên lão La Mã đề cử làm Parthicus, tức "Nhà chinh phạt của giặc Parthia".[30] Ông tiếp tục nam tiến về phía vịnh Ba Tư, rồi tuyên bố xứ Babylon là một tỉnh mới của Đế chế. Khi đến thành phố Basra, ông đưa mắt nhìn ra bờ biển vịnh Ba Tư, thì thấy một con thuyền buôn đang căng buồm đến Ấn Độ, ông công khai than phiền rằng tuổi tác mình giờ đây đã gần đất xa trời, vì thế không thể tiếp bước Alexandros Đại đế để tiến đánh Ấn Độ được.[19]

Ông cũng công bố tỉnh Assyria, có vẻ tỉnh này có gồm thâu cả lãnh thổ Adiabene, và có lẽ vị Hoàng đế cũng đề xướng những chính sách để cai quản nền tài chính của vùng.[31] Nhưng ông không dừng lại ở đó, cuối năm 116, ông đánh chiếm thành phố tráng lệ Susa. Ông cho đi đày vua Parthia là Osroes I và đưa người cháu của Osroes I là Parthamaspates lên làm vua chư hầu xứ Parthia. Theo sử sách, đích thân Hoàng đế Traianus tấn phong Vương miện cho Parthamaspates.[32] Đế quốc La Mã sẽ không bao giờ có thể tiến chiếm xa hơn nữa về phía đông kể từ đó. Sau chiến thắng vang dội, ông lui binh về phương Bắc đã giữ vững những tỉnh mà ông mới lấy được ở các vùng Armenia và Lưỡng Hà.[33]

Tượng bán thân Trajan, Glyptothek, Munich.

Tới lúc đó, sức khỏe của Hoàng đế Traianus bắt đầu suy sụp. Thành lũy của thành phố Hatra, nằm trên bờ sông Tigris ở phía sau ông, tiếp tục kháng cự lại các đợt công kích liên tục của quân La Mã. Thành Hatra có vị trí địa lý quan trọng vì thế binh tướng của ông luôn phải cướp phá pháo đài này.[34] Đích thân ông có mặt trong cuộc vây hãm, và có lẽ bị cảm nắng trong cái nắng gay gắt. Giống như Marcus Antonius khi xưa, ông nhanh chóng tung hoành Á châu nhưng quên củng cố những gì ông chiếm lĩnh được. Lúc đến Antioch, ông hay tin tên phế đế Parthia là Osroes I đang kéo quân về để đoạt lại ngôi báu. Song, dân chúng toàn bộ các tỉnh mà ông chinh phạt đều phất cờ bạo động: người Do Thái tại Ai Cập, Lưỡng Hà và Cyrene, không những thế, phong trào nổi loạn này còn lan sang Libya, MauretaniaAnh. Không những thế, chính do thật quá ư là năng động tại phương Tây cũng như tại phương Đông nóng nực, vị Hoàng đế lâm trọng bệnh và phải rút đại binh về kinh thành La Mã.[7] Traianus chỉ đơn giản coi đó là một bước lùi tạm thời, nhưng số phận quyết định là ông sẽ không bao giờ còn được nắm quyền chỉ huy quân đội nữa. Các quân đoàn phương đông của ông được chuyển cho vị pháp quan cao cấp và là tổng trấn Judaea là Brinius Carnix Maximus - người đã chỉ huy một tập đoàn quân La Mã đánh tan tác bọn phản loạn và lấy lại được Nisibis và Edessa.[33] Đại giáo đường Do Thái tại thành Alexandria cũng bị Quân đội của Traianus đốt rụi.[35] Hoàng đế còn chỉ định Quietus làm quan Tổng tài trong năm sau — khi ông bị tân Hoàng đế Hadrianus hành quyết, vì ông luôn ủng hộ chính sách bành trướng của Traianus.[34] Lại nói, khi hay tin Hoàng đế Traianus chiến thắng trở về Nghị viện La Mã đã chuẩn bị tiến hành lễ khải hoàn lớn nhất trong lịch sử La Mã kể từ thời Hoàng đế Augustus.[7]

Cuối năm 116, Traianus ngày càng yếu, ông xuống thuyền đi về Ý. Sức khỏe của ông sa sút suốt mùa xuân và hè năm 117, và tới khi ông đến được Selinus ở Cilicia, về sau gọi là Trajanopolis, ông mất đột ngột vì bị phù vào ngày 9 tháng 8. Ông trị nước được 19 năm và hưởng thọ 64 tuổi.[7] Người ta kể rằng ông đã chọn Hadrianus làm con nuôi để Hadrianus được nối dõi Vương triều, và sau khi hay tin ông về cõi vĩnh hằng thì đạo quân La Mã ở phương Đông đã tấn phong Hadrianus lên làm tân Hoàng đế. Điều này thể hiện sự tôn trọng của ông đối với quy định quân chủ truyền hiền mà tiên đế Nerva ban bố. Tuy nhiên, có tin đồn cho rằng Hoàng hậu Pompeia Plotina đã che giấu tin Traianus băng hà và cho người Vệ binh Pháp quan là Attianus đóng giả làm Traianus, với giọng nói nghe giống ông. Điều này giúp bà được làm vợ của Hadrianus và được công bố Hadrianus làm Hoàng đế kế tục trước khi thông báo về sự ra đi vĩnh viễn của tiên đế Traianus. Theo Cassius Dio, sở dĩ có chuyện ấy là do Traianus không có con đồng thời lúc ông phải lăn xả ngoài xa trường thì Hoàng hậu yêu Hadrianus.[36] Tuy nhiên, những cáo buộc này có lẽ là do sự thù địch của truyền thống chép sử của Nghị viện La Mã đối với Hadrianus. Sự tín nhiệm của ông đối với Hadrianus đã thể hiện qua việc ông phong Hadrianus làm chỉ huy của đạo quân Syria khi Hoàng đế ca khúc khải hoàn quay về kinh đô La Mã vào năm 117.[37] Khi Hoàng hậu Plotina cùng các cận thần mang thi hài của Traianus tới Seleuci, miền Pieria, Hoàng đế Hadrianus nhìn lại tiên đế lần cuối và cho người khám nghiệm tử thi ông. Tro của ông được bỏ vào một cái bình vàng và chôn cất dưới cây Cột trụ Traianus, là đài tưởng niệm những chiến công hiển hách của ông. Viện Nguyên lão còn tổ chức lễ khải hoàn cùng với nhiều trò chơi lớn, để ăn mừng chiến thắng của Hoàng đế Traianus trước quân Parthia, như họ đã hứa với ông ít lâu trước khi ông về cõi vĩnh hằng.[38]

Hoàng đế Hadrianus khi ấy có đề nghị rằng vị Optimus Imperator (Hoàng đế kiệt xuất hơn cả), do thật quá ư là được lòng dân khi còn sinh thời, không thể chết đi mà phải sống mãi trong lòng toàn dân. Vì lẽ đó, cũng trong năm 117, Viện Nguyên lão tôn Traianus lên hàng thần linh.[38] Ngay sau khi lên nối ngôi Hoàng đế, Hadrianus trả lại vùng Lưỡng Hà cho người Parthia. Tuy nhiên, tất cả các vùng đất khác mà Trajan đã chinh phục đều được giữ lại.